Thực trạng Nông thôn, Nông nghiệp và Thủy sản TP Hà Nội năm 2006 (00:00 12/12/2007)


Phần I. Tổng quan về nông thôn, nông nghiệp và thủy sản hà nội giai đoạn 1994-2006 Trong tiến trình phát triển của Thủ đô, khu vực ngoại thành có vị trí quan trọng với nhiều ưu thế đặc biệt so với các vùng nông thôn khác của cả nước. Do đó, trong những năm qua và thời gian tới, phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn, nông nghiệp luôn là một trong những nhiệm vụ quan trọng của Đảng bộ và Chính quyền Thành phố. Tình hình nông thôn Thủ đô những năm qua có những thay đổi đáng quan tâm như sau:



1. Nông thôn Hà Nội ngày nay đang chuyển nhanh sang nông thôn đô thị

Với chủ trương phát triển kinh tế ngoại thành, xây dựng nông thôn mới từng bước hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cùng với quá trình đô thị hoá nhanh trong những năm qua, nông thôn Hà Nội đã có những bước chuyển mình rõ rệt từ nông thôn cổ truyền sang nông thôn đô thị.

Theo kết quả tổng hợp của cuộc TĐT NTNN -TS tại thời điểm 1/7/2006 có 98 xã với 987179 nhân khẩu, giảm 19 xã với 120035 nhân khẩu so với kết quả TĐT năm 2001. Đã có 20 xã được đô thị hoá và chuyển thành phường của các quận ven đô. Khu vực nông thôn của Thủ đô nhiều nơi có hiện tượng thành thị và nông thôn xen ghép nhau, nối tiếp nhau về lãnh thổ, đất đai, dân cư và các hoạt động kinh tế - xã hội.

Trong nhiều vùng nông thôn Hà Nội đã xuất hiện các đô thị nhỏ, phố làng, chợ, các tụ điểm dân cư tập trung... bên cạnh các khu công nghiệp, cụm công nghiệp vừa và nhỏ tập trung, các trường Đại học, cao đẳng, dạy nghề công lập và ngoài công lập, các khu vực cơ quan hành chính tại các huyện ngoại thành. Dân cư làm nghề nông giảm đi nhanh chóng trong những năm qua. Nhiều người dân làm nghề nông đã chuyển đổi sang các ngành nghề phi nông, lâm, thuỷ sản khác.

Số liệu so sánh của hai kỳ Tổng điều tra tại các huyện cho thấy rõ sự chuyển đổi này:

Đơn vị tính:%

Các chỉ tiêu

2001

2006

- Tỷ lệ hộ NLTS/Tổng số hộ

57,2

37,0

- Nhân khẩu NLTS/ Tổng số nhân khẩu

59,4

40,6

- Lao động trong độ tuổi/ Tổng số LĐ trong độ tuổi

58,3

40,3

Nét sinh hoạt mới, nếp sống thị thành cũng đã và đang hình thành rộng rãi tại các vùng nông thôn. Biểu hiện rõ nhất là việc thực hiện hiệu quả chương trình kế hoạch hoá gia đình. Năm 2001, quy mô một gia đình nông thôn có 4, 11 nhân khẩu thì đến năm 2006 chỉ còn 3, 87 nhân khẩu/hộ. Quy mô lao động bình quân một hộ ổn định (2, 35 người/hộ năm 2001; 2, 44 người/hộ năm 2006). Từ đây cũng có thể rút ra nhận xét trong nông thôn Hà Nội ngày nay là:

- Dân số nông thôn đang trẻ hoá

- Số người sống phụ thuộc trong một gia đình ít hơn số lao động của hộ.

Đây thực sự là cơ hội thuận lợi để nâng cao thu nhập cho mỗi người dân, là nguồn lực để phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Đồng thời, trong quá trình này hiện tượng tách hộ diễn ra càng rõ nét, hộ gia đình gồm 3 thế hệ sinh sống có xu hướng giảm dần (năm 2006 là 11%) nhường chỗ cho loại hộ gồm 2 thế hệ. Đây chính là dáng dấp của cuộc sống đô thị đang dần xuất hiện ở khu vực nông thôn Hà Nội.

Tuy nhiên, quá trình đô thị hoá diễn ra chưa đều khắp, tốc độ lại khác nhau. Các huyện Gia Lâm, Từ Liêm, Thanh Trì là những huyện có tốc độ đô thị hoá nhanh hơn. Năm 2001, Gia Lâm có 31 xã, 1 thị trấn; năm 2006 chỉ còn 21 xã, với 2 thị trấn. Thanh Trì năm 2001 có 24 xã, 1 thị trấn; năm 2006 chỉ còn 15 xã và 1 thị trấn.

2. Kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật nông thôn được nâng cấp, bộ mặt nông thôn Hà Nội có nhiều thay đổi

Kết cấu hạ tầng nông thôn bao gồm kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội, là nền tảng cho sự phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật bao gồm hệ thống điện, giao thông, thông tin liên lạc, thuỷ lợi… Kết cấu hạ tầng xã hội bao gồm hệ thống văn hoá, giáo dục, y tế, thể thao…

Năm 2006, ngoại thành Hà Nội có 5 huyện với 98 xã, 3 thị trấn và có 256 nghìn hộ gia đình. So với toàn Thành phố thì nông thôn chiếm 80,6% diện tích đất tự nhiên, chiếm khoảng 37% dân số và 43,4% số đơn vị hành chính cấp xã, phường, thị trấn. So với cả nước, Hà Nội là một trong những địa phương có số hộ và mật độ dân số nông thôn khá lớn (đứng thứ 5/11 tỉnh Đồng bằng sông Hồng và thứ 7/26 tỉnh miền Bắc về số hộ).

Với chủ trương “phát triển kinh tế ngoại thành, từng bước xây dựng nông thôn mới - hiện đại”, trong những năm qua nông thôn Thủ đô đã được Thành phố và Nhà nước quan tâm đầu tư lớn, do đó đã có những bước tiến vượt bậc về các mặt chủ yếu sau:

- Hệ thống điện nông thôn

Trong 5 năm qua, Thành phố đã đầu tư 290 tỷ đồng để nâng cấp hệ thống điện nông thôn. Hệ thống điện đã đảm bảo cung cấp đầy đủ cho hoạt động sản xuất, tưới tiêu và phục vụ nhu cầu sinh hoạt của nhân dân ở nông thôn. Với 100% số xã có điện và 99,99% số hộ có sử dụng điện cho sinh hoạt và sản xuất, còn lại 21 hộ không sử dụng điện là do các hộ này đánh bắt thuỷ sản trên sông Hồng và thường xuyên phải di chuyển địa điểm.

Đến nay, phần lớn các xã ngoại thành đã chuyển giao cho ngành điện quản lý toàn bộ hệ thống điện của xã. Lượng điện sử dụng của hộ được theo dõi qua công tơ riêng thay cho khoán theo công tơ tổng trước đây. Nhờ đó, thất thoát điện năng giảm, giá điện được tính theo hình thức luỹ tiến đã góp phần tạo sự công bằng trong các hộ sử dụng điện ở nông thôn. Đây chính là kết quả thực hiện chính sách điện khí hoá nông thôn của Đảng và Nhà nước ta trong thời kỳ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.

- Hạ tầng giao thông nông thôn

Trong thời kỳ 2001-2006, để ưu tiên phát triển mạng lưới giao thông nông thôn, thành phố Hà Nội đã chủ động tăng đầu tư từ ngân sách Nhà nước và đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư như: Quỹ hợp tác xã, vốn vay, đóng góp của các dự án xây dựng tại địa bàn, đổi đất lấy hạ tầng và huy động sự đóng góp của nhân dân… Kết quả là, đến nay đã có 100% số xã có đường ô tô đến trụ sở UBND xã và các tuyến đường này đã được trải nhựa, bê tông hoá 100% (năm 2001 tỷ lệ này là 93,9%).

Cùng với việc mở rộng và nâng cấp đường giao thông, chất lượng các tuyến đường liên xã, liên thôn và ngõ xóm đã được cải thiện: 100% số xã có đường giao thông liên thôn được trải nhựa và bê tông hoá (năm 2001 tỷ lệ này 65,25%). Thời gian qua, huyện Sóc Sơn là đơn vị có hệ thống giao thông nông thôn được tập trung cải tạo, nâng cấp và chuyển biến khá rõ. Tại đây, năm 2001 mới có 4% số đường giao thông liên thôn được nhựa, bê tông hoá, đến nay tỷ lệ này là 100%. Đây cũng là kết quả trong thực hiện Chương trình 12 của Thành uỷ về phát triển kinh tế khu vực ngoại thành giai đoạn 2000-2005 và Nghị quyết 16/NQ-TU của Ban Thường vụ Thành uỷ về phát triển kinh tế - xã hội huyện Sóc Sơn.

- Hệ thống thuỷ lợi

Hệ thống thuỷ lợi của Hà Nội chủ yếu gồm các công trình như: trạm bơm tưới tiêu độc lập và 361 trạm bơm nhỏ với chiều dài 1729 km kênh tưới cấp 1, cấp 2 và cấp 3 do các xã, hợp tác xã quản lý. Trong 5 năm qua, thực hiện chương trình kiên cố hoá kênh mương, hoàn chỉnh trạm bơm, hồ đập và công trình tưới tiêu phục vụ sản xuất nông nghiệp, Thành phố đã đầu tư 150 tỷ đồng, các huyện ngoại thành đã cứng hoá 453 km kênh, mương đạt 26,3% so tổng số độ dài kênh, mương toàn Thành phố. Tuy nhiên, tỷ lệ kiên cố hoá kênh, mương Hà Nội vẫn thấp vì một số huyện còn chờ quy hoạch phát triển nông nghiệp của Thành phố đến năm 2010 và tầm nhìn đến 2020.

- Hệ thống thông tin, bưu chính viễn thông và văn hoá ở nông thôn

Mạng lưới thông tin, bưu chính viễn thông và văn hoá nông thôn Hà Nội trong những năm qua phát triển khá nhanh, đã góp phần đáp ứng yêu cầu của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông thôn, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân ngoại thành và điều kiện làm việc của UBND các xã.

Đến nay, 100% UBND các xã có điện thoại cố định và máy vi tính hoạt động, trong đó 8 xã đã nối mạng interet; 100% số xã có hệ thống truyền thanh thông suốt đến các thôn; 85% số xã có điểm bưu điện văn hoá, trong đó 43,3% điểm bưu điện văn hoá xã đã nối mạng internet; 21% số xã có thư viện; 73% số thôn có nhà văn hoá thôn; 100% các xã đã có tủ sách pháp luật.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng giáo dục và mầm non

Đến năm 2006, 100% số xã ngoại thành Hà Nội có trường Tiểu học và Trung học cơ sở. Để đáp ứng yêu cầu phổ cập giáo dục Tiểu học, xây dựng trường chuẩn Quốc gia, khu vực ngoại thành đã có 13 xã có 2 trường Tiểu học, 5 xã có 2 trường Trung học cơ sở trở lên.

Trong 5 năm qua, hệ thống các trường Tiểu học và Trung học cơ sở đã được Nhà nước đầu tư lớn. Theo kết quả Tổng điều tra, hệ thống trường Tiểu học với tỷ lệ 100% là trường kiên cố; hệ thống trường Trung học cơ sở: 97% là trường kiên cố, chỉ còn 3% trường bán kiên cố; không có trường đơn sơ. Đặc biệt, các huyện Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì: 100% trường THCS là trường kiên cố. Tất cả các huyện ngoại thành có trường Trung học phổ thông và các trường này đều thuộc loại trường kiên cố.

Cùng với sự phát triển của hệ thống giáo dục phổ thông, các cơ sở giáo dục mầm non cũng được mở rộng đến từng thôn. Đến nay, toàn Thành phố có 76,4% số thôn có lớp mẫu giáo và 53,8% số thôn có nhà trẻ. Đồng thời, thực hiện chủ trương xã hội hoá hệ thống giáo dục, khu vực nông thôn đã có 7,3% số lớp mẫu giáo và 18,6% nhà trẻ do khu vực ngoài Nhà nước đảm nhiệm. Như vậy, có thể khẳng định hệ thống hạ tầng giáo dục phổ thông và mầm non ở nông thôn Hà Nội hiện nay đã tăng lên đáng kể, hoàn chỉnh và đa dạng hoá loại hình.

- Hệ thống cơ sở hạ tầng y tế, nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường

Để tăng cường chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng, hệ thống y tế ở khu vực ngoại thành đã được quan tâm đầu tư: 100% số xã có trạm y tế, trong đó: 84,7% số trạm y tế xây dựng kiên cố. Số lượng y bác sỹ được tăng cường, mạng lưới khám chữa bệnh được mở rộng đến các thôn.

Kết quả Tổng điều tra, tại thời điểm 1/7/2006 có 473/624 thôn có cán bộ y tế, chiếm 75,8%. Thực hiện chủ trương xã hội hoá hoạt động y tế của Đảng và Nhà nước, khu vực nông thôn của thành phố Hà Nội đã hình thành và phát triển các loại hình khám chữa bệnh tư nhân: có 61,2% số xã có cơ sở khám chữa bệnh tư nhân và 86,7% số xã có cửa hàng thuốc tư nhân.

Do các hộ dân cư ở nông thôn thường sống không tập trung như khu vực thành thị, nên việc đầu tư xây dựng hạ tầng dịch vụ tiện ích theo hình thức tập trung gặp khó khăn về vốn và kỹ thuật. Tuy nhiên, bằng nhiều hình thức huy động vốn và vận hành khác nhau, đến nay việc cung cấp nước sạch, thu gom nước thải và rác sinh hoạt ở nông thôn đã có nhiều tiến bộ:

+ 28 xã có công trình cấp nước sạch tập trung, chiếm 28,6%;

+ 80 xã có hệ thống thoát nước thải chung, chiếm 81,6%;

+ 92 xã tổ chức thu gom rác thải sinh hoạt tập trung, chiếm 93,9%.

- Hệ thống chợ, quỹ tín dụng nhân dân và mạng lưới khuyến nông

Hệ thống chợ ở khu vực nông thôn của Thủ đô đã được quy hoạch, đầu tư, nâng cấp tạo điều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển. Theo kết quả Tổng điều tra trên địa bàn, hiện nay 100% số xã có chợ với 111 chợ theo tiêu chuẩn của Nhà nước, trong đó: 66 chợ được xây dựng kiên cố, đạt 59,5% và có 4 chợ đầu mối phục vụ nhu cầu buôn bán nông sản của người dân nông thôn.

Hệ thống khuyến nông được tăng cường đến cấp xã, thôn để phục vụ, hỗ trợ nông dân trong sản xuất: 73,5% số xã có cán bộ khuyến nông, 29,3% số thôn có cộng tác viên khuyến nông và 98,9% số xã có cán bộ thú y.

Nhìn chung, hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn Thủ đô đã được nâng cấp và hoàn thiện cả chiều rộng lẫn chiều sâu, do đó đã đáp ứng được nhu cầu phát triển của khu vực nông thôn. Đồng thời, đã tạo ra môi trường kinh tế thuận lợi cho quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn.

Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hạ tầng của nông thôn Hà Nội vẫn còn những nhược điểm sau:

1. Chất lượng các công trình hạ tầng ở nông thôn còn thấp không đạt các tiêu chuẩn kỹ thuật tiên tiến, chưa đáp ứng được các yêu cầu phát triển nhanh, hiện đại của nông thôn nông nghiệp Thủ đô.

2. Các công trình xây dựng thiếu quy hoạch tổng thể, chưa đồng bộ. Huy động đóng góp của nhân dân còn thấp so với tiềm năng và yêu cầu phát triển. Sử dụng đất công dành cho xây dựng hạ tầng còn tuỳ tiện, thiếu quy hoạch chặt chẽ và lâu dài.

3. Quy mô và tốc độ phát triển kết cấu hạ tầng giữa các huyện, thậm chí giữa các xã trong cùng một huyện có sự khác biệt lớn: Huyện Từ Liêm 100% số xã có đường liên thôn được trải nhựa, bê tông hoá từ 85% trở lên; Sóc Sơn 28% số xã có đường liên thôn được trải nhựa, bê tông hoá trên 80%; Gia Lâm 20% số xã có đường liên thôn được trải nhựa, bê tông hoá dưới 30%.

4. Việc cung cấp nước sạch tại khu vực nông thôn của Thủ đô còn chậm, cần được các cấp, các ngành đặc biệt quan tâm. Trong khi cả nước có 35,3% số xã có công trình cấp nước sinh hoạt tập trung thì tỷ lệ này ở Hà Nội là 28,6% và số hộ được sử dụng nước máy hợp vệ sinh chỉ chiếm 16,7% (44094 hộ). Số xã có hệ thống thoát nước thải chung đạt 81,6%. Số xã tổ chức thu gom rác thải đạt 93,9%. Hiện nay, việc san lấp các ao hồ để xây dựng đã gây ra nhiều khó khăn trong việc chứa và thoát nước thải. Việc thu gom rác thải còn nhiều bất cập như: không có bãi chứa, bãi chứa không đảm bảo tiêu chuẩn, hoặc xử lý không đảm bảo vệ sinh.

5. Hệ thống chợ đầu mối mặc dù được quan tâm đầu tư nhưng hoạt động chưa hiệu quả, có biểu hiện lãng phí và chưa đúng nhu cầu trong việc đầu tư này.

6. Hệ thống hạ tầng và quy mô đầu tư cho việc chế biến nông sản, giết mổ gia súc, gia cầm không tập trung còn thiếu và nhỏ so với nhu cầu. Tình trạng không đảm bảo vệ sinh môi trường, an toàn thực phẩm còn phổ biến. Việc phòng chống lây lan dịch bệnh trong đàn gia súc, gia cầm tuy được quan tâm nhưng diễn biến còn phức tạp.

3. Cơ cấu kinh tế nông thôn đang chuyển dịch với tốc độ nhanh theo hướng tích cực.

Cơ cấu kinh tế nông thôn bao gồm những nội dung: Cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu các thành phần kinh tế. Cơ cấu kinh tế được biểu hiện bằng quan hệ tỷ lệ của một số chỉ tiêu kinh tế tổng hợp. Vì vậy, khi đánh giá về cơ cấu kinh tế nông thôn, người ta có thể đánh giá thông qua cơ cấu ngành, nghề, thu nhập của hộ hoặc cơ cấu lao động. Một cơ cấu kinh tế chuyển dịch có phù hợp hay không sẽ được lượng hoá qua các chỉ tiêu thống kê nêu trên ở các thời điểm khác nhau.

Hiện nay, thực tế về hệ thống hạ tầng nông thôn Hà Nội đã và đang là nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn sang sản xuất hàng hoá, tạo điều kiện khai thác và phát huy lợi thế so sánh của từng huyện, từng vùng, hình thành sự phân công lao động mới.

Kết kết quả Tổng điều tra tại thời điểm 1/7/2006, nông thôn Hà Nội có 255, 1 nghìn hộ gia đình, giảm 14 nghìn hộ so với năm 2001, chủ yếu do chuyển đổi một số đơn vị hành chính vào đô thị. Tuy nhiên, do tăng dân số và xu hướng tách hộ gia đình nên bình quân mỗi xã có 2603 hộ, tăng 323 hộ /xã so với mức bình quân 5 năm trước đây.

Ngoài xu hướng tăng về số lượng hộ bình quân /xã, qua hai cuộc điều tra cũng cho thấy có sự chuyển dịch mạnh mẽ về cơ cấu loại hình hộ. Cùng với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nông thôn, hiện nay khu vực nông thôn có 94, 5 nghìn hộ nông, lâm, thuỷ sản giảm 69, 4 nghìn hộ so với năm 2001, số hộ công nghiệp và xây dựng là 68, 2 nghìn h?, tăng 21, 5 nghìn h?; số hộ thương mại - dịch vụ là 80, 3 nghìn hộ tăng 16, 2 nghìn hộ.

Sau 5 năm cơ cấu hộ gia đình nông thôn Hà Nội có sự chuyển dịch đáng kể:

Đ.vị tính: %

Loại hộ

Cơ cấu năm 2001

Cơ cấu năm 2006

- Hộ Nông, lâm - Thủy sản

57,2

37,1

- Hộ Công nghiệp - Xây dựng

17,3

26,7

- Hộ thương mại - vận tải- dịch vụ khác

21,8

31,4

- Hộ khác (Không có họat động kinh tế)

3,7

4,8

Quá trình chuyển dịch cơ cấu loại hộ theo nguồn thu nhập chính cũng khá mạnh mẽ. Năm 2006, chỉ còn 30,9% số hộ có nguồn thu nhập lớn nhất từ hoạt động nông, lâm, thuỷ sản. Tỷ lệ này năm 2001 là 53%. Huyện Sóc Sơn có tỷ lệ số hộ có nguồn thu nhập chính từ nông, lâm, thuỷ sản cao nhất, chiếm 55,3% trong tổng số hộ của huyện. Thấp nhất là huyện Từ Liêm (11,4%) và Thanh Trì (18,9%).

Các hộ nông, lâm, thuỷ sản, ngoài ngành sản xuất chính, đã tích cực khai thác các nguồn vốn và sử dụng lao động dôi dư, thời gian nông nhàn để tổ chức thêm các hoạt động kinh tế phi nông, lâm, thuỷ sản nhằm tăng thêm thu nhập cho gia đình. Đây là xu hướng tích cực trong nông thôn, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống nhân dân. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này diễn ra không đồng đều giữa các huyện, trong đó huyện Sóc Sơn, Gia Lâm là địa phương tiến hành chậm hơn, trình độ sản xuất hàng hoá thấp, mang nặng tính thuần nông.

4. Thu nhập tăng nhanh là cơ sở vững chắc cho việc tăng cường đầu tư phát triển và mở rộng vốn tích luỹ trong dân.

Thu nhập dân cư khu vực nông thôn trong những năm qua liên tục tăng lên. Ngoài việc sử dụng nguồn thu nhập cho chi tiêu đời sống, nhìn chung các hộ còn mở rộng đầu tư cho sản xuất và một phần để dành tiết kiệm.

Kết quả Tổng điều tra K (suy rộng từ điều tra 1270 hộ mẫu) cho thấy, năm 2005, các hộ nông thôn ngoại thành đã đầu tư vào sản xuất kinh doanh, xây dựng nhà ở và mua sắm đồ dùng lâu bền với giá trị 3622, 7 tỉ đồng (bình quân khoảng 14, 9 triệu đồng/hộ/năm) gấp 2, 66 lần so với năm 2001. Trong đ?: dùng 38,9% để đầu tư cho phát triển sản xuất và kinh doanh; 61,1% đầu tư cho xây dựng nhà ở và mua sắm đồ dùng lâu bền.

Vốn đầu tư phát triển tăng nhanh đã thúc đẩy kinh tế trên địa bàn Thành phố nói chung và khu vực ngoại thành nói riêng những năm qua tăng trưởng ổn định. Tại thời điểm 1/7/2006, tổng vốn tích luỹ của các hộ nông thôn toàn Thành phố ước tính đạt 2994 tỷ đồng, tăng gấp 1, 9 lần so với thời điểm 1/10/2001. Riêng hộ nông nghiệp khu vực nông thôn tích luỹ tăng 2, 1 lần. Tích luỹ bình quân 1 hộ đạt 11, 7 triệu đồng, cao hơn mức tích luỹ bình quân của cả nước là 5, 1 triệu đồng (cả nước tích luỹ bình quân 1 hộ: 6, 7 triệu đồng).

Trong cơ chế thị trường, do hàng hoá luôn sẵn có và đa dạng nên đã tác động đến xu hướng tích luỹ của người dân ở nông thôn hiện nay. Trong tổng số vốn tích luỹ có 72, 5 tỷ đồng được tích luỹ bằng hiện vật (chiếm 2,4%); 2922 tỷ đồng được tích luỹ bằng tiền mặt vàng bạc, đã quý hoặc cho vay (chiếm 97,6%). Tuy nhiên, lượng vốn bỏ ra để đầu tư vẫn còn thấp, nhất là phần cho phát triển sản xuất kinh doanh. Tích luỹ có sự chênh lệch lớn giữa các huyện và giữa các loại hộ. Huyện Từ Liêm mỗi hộ có mức tích luỹ bình quân 22, 1 triệu đồng cao hơn nhiều so với mức tích luỹ 8, 8 triệu đồng ở huyện Sóc Sơn và 9, 4 triệu đồng ở huyện Gia Lâm.

Trong những năm qua, Thành phố có nhiều chính sách ưu đãi cho sản xuất thuỷ sản như: Vốn đầu tư, nâng cấp hạ tầng kỹ thuật cho sản xuất, chính sách đất đai... để thực hiện chuyển dịch cơ cấu sản xuất trong kinh tế ngoại thành. Ngành thuỷ sản đã phát triển, sản xuất có lãi và hộ sản xuất thuỷ sản đã có bước đột phá trong tích luỹ, đạt cao nhất: 18, 4 triệu đồng, tiếp đến là hộ vận tải 15, 9 triệu đồng; hộ thương nghiệp 14, 5 triệu đồng. Thấp nhất là hộ nông nghiệp 8, 1 triệu đồng chỉ bằng một nửa mức tích luỹ bình quân chung. Các hộ nông nghiệp ở huyện Sóc Sơn chỉ tích luỹ được bình quân 4, 4 triệu đồng. Điều này cho thấy sản xuất nông nghiệp thuần nông thu nhập rất thấp do đó rất khó cải thiện và nâng cao đời sống.

Phần II. Kết quả hoạt động Sản xuấtnông nghiệp,lâm nghiệp và thuỷ sản Hà Nội (1/7/2006)

Thời kỳ 2000-2005, Hà Nội đô thị hoá khá nhanh, thêm 2 quận mới được thành lập, với 20 xã chuyển thành phường. Hàng năm, có khoảng 1500-3000 ha đất nông nghiệp đã được chuyển đổi mục đích sử dụng, thêm vào đó, chăn nuôi liên tục xuất hiện dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm (dịch cúm ở đàn gia cầm, dịch lở mồm long móng ở gia súc). Mặc dù vậy, sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản Hà Nội vẫn được duy trì phát triển.

Giá trị sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của Thành phố tăng bình quân từ 1,0-2,5%/năm. Năng suất các loại cây trồng, vật nuôi đều tăng đáng kể, các loại hình tổ chức sản xuất nông, lâm, thuỷ sản như: Hộ gia đình, trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp phát triển.

Kết quả Tổng điều tra có thể đánh giá một số thay đổi về hoạt động sản xuất nông, lâm, thuỷ sản Hà Nội như sau:

1. Kinh tế hộ gia đình vẫn là nền tảng trong sản xuất nông nghiệp ngoại thành. Cơ cấu hộ chuyển dịch tích cực, số hộ nông nghiệp giảm xuống, số hộ lâm nghiệp và thuỷ sản tăng lên, song còn chậm và chưa tương xứng với tiềm năng của ngành này.

Trong thời kỳ bao cấp sản xuất nông nghiệp tập trung, với hình thức hợp tác hoá nông nghiệp, “kinh tế hộ” chỉ được quan niệm là “kinh tế phụ gia đình” bổ sung cho kinh tế tập thể. Từ khi thực hiện Nghị quyết 10 đến nay, hộ gia đình trong nông thôn luôn được xác định và thực sự trở thành một đơn vị kinh tế tự chủ. Hình thức tổ chức sản xuất phổ biến trong nông thôn nước ta cũng như ở ngoại thành Hà Nội vẫn chủ yếu là hộ gia đình.

Cơ cấu hộ gia đình đã có chuyển dịch mạnh mẽ, hộ nông nghiệp giảm từ 57,2% năm 2001 xuống còn 37,1% năm 2006 và cơ cấu các loại hộ công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ tăng lên. Xét trong nội bộ loại hộ nông, lâm, thuỷ sản ở khu vực nông thôn cũng có sự chuyển dịch về cơ cấu ngành, nghề theo hướng tích cực, nhưng số lượng và tỷ trọng hộ lâm nghiệp và thuỷ sản còn quá nhỏ. Tính đến thời điểm 1/7/2006, khu vực nông thôn Hà Nội có 94593 hộ nông, lâm nghiệp và thuỷ sản (nông nghiệp: 93265 hộ, lâm nghiệp: 136 hộ, thuỷ sản: 1192 hộ), giảm 59, 6 nghìn hộ (-38,7%) so với năm 2001 (cả nước: năm 2006 so 2001 là -7,5%). Đáng quan tâm nữa, trong nội bộ loại hộ nông, lâm, thuỷ sản là từng loại hộ cũng có xu hướng chuyển dịch tích cực. Để tăng hiệu quả sản xuất trên một đơn vị diện tích đất đai và sử dụng hợp lý nguồn vốn, lao động nông thôn, thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố lần thứ 13 và Chương trình 12 của Thành uỷ, các huyện đã chỉ đạo chuyển đổi ruộng trũng cấy lúa không chắc ăn sang nuôi trồng thuỷ sản và vùng đất cao thường hạn hán sang trồng màu và cây ăn quả. Đồng thời, từng bước thực hiện cơ chế giao đất, giao rừng đến hộ gia đình chăm sóc và bảo vệ, đã góp phần làm cho số lượng và tỷ trọng hộ nông nghiệp giảm dần và trực tiếp làm tăng số lượng và cơ cấu hộ thuỷ sản, hộ lâm nghiệp trong nội bộ loại hộ nông, lâm, thuỷ sản.

Tốc độ giảm hộ nông nghiệp thời kỳ 2001-2006 nhanh hơn tốc độ giảm của thời kỳ 1994-2001. Nếu như thời kỳ 1994-2001 số hộ nông nghiệp giảm 13113 hộ (-7,8%) (năm 1994: 168725 hộ; năm 2001: 155612 hộ) thì đến thời kỳ 2001-2006 giảm xấp xỉ 59, 6 ngàn h?, (-38,7%). Xu hướng này thể hiện ở tất cả các huyện .

                                                                                                                                  Đơn vị tính: Hộ

1994

2001

2006

Sóc Sơn

39477

44320

40201

Đông Anh

43841

39855

21788

Gia Lâm

34329

31638

17042

Từ Liêm

23726

14449

7365

Thanh Trì

27352

22727

7957

Giảm mạnh nhất là huyện Thanh Trì: 14770 hộ (giảm 65%), Gia Lâm với 14596 hộ (giảm 46,2%), tiếp đến là huyện Từ Liêm (giảm 49,1%); Đông Anh (giảm 45,3%); huyện Sóc Sơn chủ yếu vẫn là thuần nông, nên tỷ lệ hộ nông nghiệp chỉ giảm 9,3% (tốc độ chuyển dịch chậm nhất so với toàn Thành phố).

2. Kinh tế trang trại tiếp tục phát triển và ngày càng đóng vai trò quan trọng trong sản xuất nông, lâm, thuỷ sản của các huyện ngoại thành Hà Nội

Mô hình kinh tế trang trại là một trong những hướng phát triển của nền nông nghiệp Hà Nội nhằm từng bước hướng tới sản xuất tập trung và chuyên môn hoá trong nông nghiệp. Năm 2006, theo tiêu chí trang trại được quy định tại thông tư 74/2003/TT-BNN ngày 4/7/2003 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, thành phố Hà Nội có 491 trang trại, trong đó: 195 trang trại nông nghiệp, 170 trang trại nuôi trồng thuỷ sản và 126 trang trại kinh doanh tổng hợp.

Tổng số trang trại của Hà Nội là tương đối nhỏ so với 113 nghìn trang trại của cả nước và ít hơn nhiều so với các tỉnh lân cận như Bắc Ninh (1788 trang trại), Hà Tây (1574 trang trại), Hưng Yên (2185 trang trại). Nguyên nhân chủ yếu là do hạn chế về diện tích đất nông nghiệp, bình quân một trang trại ở Hà Nội chỉ sử dụng 3, 2 ha diện tích đất.

Tuy nhiên, so với Tổng điều tra năm 2001 thì số lượng trang trại của Hà Nội đã tăng 351 trang trại. Trang trại thực sự là mô hình kinh tế hoạt động hiệu quả đã và đang được Nhà nước hỗ trợ và tạo điều kiện khuyến khích phát triển và nhân rộng ở các huyện. Ngoài ra, những năm gần đây giá các sản phẩm nông nghiệp, thuỷ sản tăng cao nên ngày càng nhiều hộ đạt được tiêu chí trang trại theo quy định của Nhà nước.

Kết quả điều tra cho thấy các trang trại sử dụng 1988 lao động, bình quân mỗi trang trại sử dụng 4 lao động. Như vậy, quy mô trang trại tính theo lao động chỉ lớn hơn một hộ sản xuất nông nghiệp 1, 6 lao động. Đây cũng là tình trạng chung của các trang trại trong cả nước và các vùng miền khác (bình quân một trang trại trong cả nước là 3, 5 lao động; vùng Đồng bằng sông Hồng là 2, 9 lao động).

Do được đầu tư vốn lớn, nên hiệu quả và kết quả sản xuất kinh doanh của mô hình này tương đối cao. Tổng số vốn các loại trang trại sử dụng là 212, 3 tỷ đồng, hàng năm tạo ra nguồn thu 176 tỷ đồng và thu nhập trước thuế là 35, 6 tỷ đồng. Bình quân một trang trại có 432, 5 triệu đồng vốn sản xuất kinh doanh, tổng thu là 358, 3 triệu đồng/năm, thu nhập trước thuế là 72, 7 triệu đồng/năm (tương ứng 18, 2 triệu đồng/lao động /năm) cao hơn nhiều so với sản xuất của các hộ nông nghiệp của Thủ đô. Xét theo tiêu chí về vốn và tổng thu, chi, thì các trang trại của Hà Nội cũng có quy mô tương đối lớn so với vùng Đồng bằng sông Hồng (vốn sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại là 200, 9 triệu đồng, tổng thu là 192, 6 triệu đồng/năm) và cả nước (vốn sản xuất kinh doanh bình quân một trang trại là 257, 8 triệu đồng, tổng thu là 174, 3 triệu đồng/năm).

Loại hình sản xuất của trang trại ngày càng đa dạng và có sự chuyển dịch về cơ cấu theo hướng giảm tỷ trọng trang trại trồng cây hàng năm, cây ăn quả, tăng tỷ trọng trang trại chăn nuôi và trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp. Tỷ trọng trang trại trồng cây hàng năm giảm từ 10% năm 2001 xuống còn 3,25% năm 2006. Các loại hình trang trại cũng có sự chuyển dịch, điển hình là sự chuyển dịch từ trang trại nuôi trồng thuỷ sản sang trang trại chăn nuôi, trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp. Nguyên nhân là các trang trại thuỷ sản thường kết hợp với chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ cầm, do đó số lượng trang trại chăn nuôi, kinh doanh tổng hợp tăng lên đáng kể: Tỷ trọng trang trại chăn nuôi năm 2001 là 14,3% năm 2006 là 33,8%; tỷ trọng trang trại sản xuất kinh doanh tổng hợp năm 2001 là 2,1%, năm 2006 là 25,6%; tỷ trọng trang trại thuỷ sản năm 2001 là 66,4%, năm 2006 là 34,6% trong tổng số trang trại của Thủ đô.

Hiện trạng phân bố các trang trại tương đối hợp lý để tận dụng được tối đa các lợi thế về điều kiện tự nhiên, đất đai của từng địa phương. Phần lớn các trang trại chăn nuôi tập trung ở huyện Đông Anh (70/166 trang trại chăn nuôi), huyện Sóc Sơn (51/166 trang trại chăn nuôi) là những huyện tương đối sẵn có về diện tích đất để phát triển trang trại và nguồn nguyên liệu đầu vào làm thức ăn chăn nuôi. Các trang trại nuôi trồng thuỷ sản tập trung chủ yếu tại huyện Thanh Trì (94/170 trang trại thuỷ sản), đây là vùng trũng điều kiện phát triển loại hình trang trại này, đồng thời nơi đây cũng có truyền thống nuôi trồng thuỷ sản, do đó, diện tích mặt nước nuôi trồng thuỷ sản ở đây lớn nhất Thành phố.

Loại hình trang trại trồng cây hàng năm tập trung chủ yếu ở huyện Từ Liêm và sản phẩm chính là hoa, cây cảnh và rau an toàn.

Mô hình kinh tế trang trại của Hà Nội qua 5 năm có sự phát triển về số lượng chất lượng và quy mô. Các trang trại đã khai thác được những tiềm năng về vốn, lao động, đất đai và các điều kiện khác trên địa bàn. Mô hình kinh tế trang trại đang ngày càng có vai trò và vị trí quan trọng hơn trong nền nông nghiệp Thủ đô. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển nó cũng bộc lộ một số hạn chế và khó khăn sau:

- Quy mô trang trại nhìn chung còn nhỏ, số lao động, diện tích đất sản xuất còn ít. Một số trang trại còn chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, nên chủ trang trại chưa yên tâm đầu tư xây dựng và cải tạo đất đai để phát triển sản xuất và tạo ra địa tô chênh lệch.

- Trình độ quản lý của chủ trang trại và chuyên môn kỹ thuật của lao động trang trại còn thấp, nên gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp thu, ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý. Sản phẩm hàng hoá chủ yếu ở dạng thô, chưa qua chế biến, nên giá trị thấp. Mặt khác, do giá cả biến động, thị trường tiêu thụ khó khăn nên đã ảnh hưởng đến thu nhập của trang trại.

3. HTX nông nghiệp đã phát huy tính tự chủ trong hoạt động, nhưng còn nhiều bất cập trong phát triển.

Từ khi thực hiện Nghị quyết 10 đến nay, vai trò của Hợp tác xã (HTX) trong nông thôn đã thay đổi nhiều so với thời gian trước đây Trên thực tế, mặc dù kinh tế hộ gia đình đang giữ vai trò chủ đạo trong sản xuất nông, lâm, thủy sản, nhưng kinh tế HTX vẫn tồn tại, song hoạt động của HTX NLTS trong những năm qua gặp không ít khó khăn, bất cập.

Tại thời điểm 1/7/2006, cả nước có 7310 HTX NLTS, giảm 2003 HTX so với năm 2001, nhưng chỉ có 7056 HTX thực tế hoạt động (trong đó 5897 HTX là HTX chuyển đổi theo luật HTX và 1159 HTX thành lập mới), thậm chí ở một số tỉnh không còn HTX nông nghiệp do chất lượng hoạt động thấp, cơ sở vật chất lạc hậu, năng lực quản lý kém.

Trong tình hình chung của cả nước, hình thức tổ chức và hoạt động của các HTX NLTS ở Hà Nội cũng đang có sự biến động lớn và dần tự khẳng định loại hình. Hà Nội, với 281 HTX NLTS được phân bố rải rác ở các huyện ngoại thành và một số quận nội thành. Trong 281 HTX đang thực tế hoạt động có 257 HTX (chiếm 91,5%) là HTX chuyển đổi; 24 HTX thành lập mới (8,5%). Từ năm 2001 đến thời điểm 1/7/2006, đã có 33 HTX giải thể do hoạt động không hiệu quả hoặc không thể thành lập mới với chức năng và nhiệm vụ thay đổi. Tình hình biến động về số lượng HTX NLTS diễn ta rất khác nhau ở từng địa phương của Thành phố. Các huyện có số HTX giảm: Sóc Sơn, Gia Lâm, Thanh Trì; trong đó Sóc Sơn giảm nhiều nhất với 21 HTX (-22,8% so năm 2001). Ngược lại, huyện Đông Anh và Từ Liêm số HTX lại tăng; trong đó Đông Anh tăng 14 HTX (+18,2% so 2001).

Các HTX ở Hà nội được tổ chức sắp xếp theo mô hình quản lý tương đối gọn nhẹ, đa dạng hóa phương thức hoạt động, trong đó chú trọng các khâu cung cấp dịch vụ thủy lợi, giống, vật tư nông nghiệp và các dịch vụ phục vụ đời sống, các huyện Sóc Sơn, Đông Anh thành lập mới một số HTX dịch vụ tiêu thụ sản phẩm.

Quy mô lao động bình quân 1 HTX là 18, 3 lao động, giảm 3, 7 lao động/HTX so với thời điểm 1/10/2001; lao động thường xuyên giảm do nhiều HTX nông nghiệp được tổ chức hợp lý hơn theo hướng một người kiêm nhiều việc, tổ chức các hoạt động dịch vụ theo hình thức khoán công việc là chủ yếu. Các huyện Sóc Sơn, Đông Anh và Thanh Trì có quy mô lao động bình quân trên một HTX gọn nhẹ hơn so với các huyện Gia Lâm, Từ Liêm và các quận.

Tổng tài sản của các HTX là 238, 9 tỷ đồng, gồm 189, 2 tỷ đồng vốn chủ sở hữu (được hình thành từ 53, 4 tỷ đồng vốn góp ban đầu của xã viên và 136, 5 tỷ đồng hình thành từ HTX cũ chuyển sang, từ nguồn vốn ngân sách của Nhà nước và lợi nhuận sản xuất của HTX), 49, 8 tỷ đồng vốn vay và từ các nguốn vốn khác. Các HTX sử dụng 5143 lao động và tạo ra 107, 7 tỷ đồng doanh thu thuần năm 2005. Bình quân mỗi HTX có tổng nguồn vốn là 850, 5 triệu đồng, tạo ra doanh thu 383, 3 triệu đồng. Trong cơ cấu tài sản, vốn chủ sở hữu chiếm 79,2%, nợ phải trả 20,8%, điều này cho thấy các HTX có tình hình tài chính khá tự chủ, mặt khác, tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính (hệ số nợ trên tổng nguồn vốn) còn thấp, cũng cho thấy hầu hết các đơn vị đều lúng túng trong việc tìm hướng đi mới, phát triển sản xuất và mở rộng phạm vi, lĩnh vực cung cấp dịch vụ cho các hộ nông dân. Ngoài ra, giá trị tài sản do HTX quản lý tuy lớn, song chủ yếu là giá trị tài sản của HTX cũ chuyển sang, trang thiết bị lạc hậu, các hệ thống cung cấp điện sinh hoạt, thủy lợi, nhà kho cũ, có tần suất sử dụng không cao, ít hiệu quả. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn ít và phần lớn lại là công nợ tồn đọng, không có khả năng thu được.

Vốn sản xuất bình quân một HTX có sự chênh lệch lớn giữa các địa phương; Vốn của các HTX NLTS ở các quận và các huyện ven đô (Từ Liêm, Gia Lâm) cao gấp 2, 3 lần so với vốn của các HTX của các huyện thuần nông (Sóc Sơn, Đông Anh, Thanh Trì)

Nhìn chung, sau 10 năm thực hiện luật HTX, Nghị định 16 của Chính phủ và sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX), hoạt động của các HTX đã có chuyển biến tích cực, các HTX được củng cố một bước về tổ chức và quản lý. Bộ máy tổ chức gọn nhẹ hơn, kinh doanh theo hướng đa dạng hóa phương thức để phù hợp với các điều kiện cơ sở hạ tầng hiện có. Các HTX đã thực hiện được các khâu dịch vụ cơ bản phục vụ sản xuất nông, lâm, thủy sản. Hoạt động kinh doanh của nhiều HTX vừa đảm bảo nguyên tắc thu đủ bù chi, vừa tạo nền tảng phục vụ sản xuất kinh tế hộ và sự phát triển chung của cộng đồng. Nhiều HTX đã đóng vai trò tích cực trong việc tiếp thu, hướng dẫn và chuyển giao công nghệ tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn, góp phần tích cực trong việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới, củng cố quan hệ kinh tế nông thôn.

Tình hình hoạt động của các HTX nông, lâm, thủy sản hiện nay còn gặp không ít khó khăn và bất cập:

- Quá trình chuyển đổi của nhiều HTX nông nghiệp còn mang tính hình thức, mới chỉ chuyển đổi về tổ chức, chưa có sự chuyển đổi rõ rệt về nội dung và hiệu quả hoạt động. Xã viên tham gia HTX không đóng cổ phần mới, cơ sở vật chất của HTX không được tăng cường, phương án sản xuất kinh doanh mới chỉ dừng lại ở khâu dịch vụ đầu vào là chính và mang tính hỗ trợ sản xuất cho các hộ xã viên; Chưa có HTX nào tổ chức sản xuất trồng trọt, chăn nuôi.

- Năng lực tài chính của nhiều HTX nông nghiệp còn yếu, giá trị tài sản của HTX còn thấp, chủ yếu tập trung ở TSCĐ là cơ sở vật chất từ HTX cũ chuyển sang. Vốn lưu động của HTX ít và chủ yếu là các khoản xã viên nợ, làm cho tài chính của HTX ngày càng khó khăn hơn.

- Doanh thu dịch vụ hàng năm của các HTX còn rất thấp, nhiều HTX kinh doanh dịch vụ bị lỗ, chủ yếu làm các khâu dịch vụ thu bù chi không có lãi hoặc mức lãi rất thấp, không đủ khả năng tái đầu tư.

- Chất lượng hoạt động và quản lý của nhiều HTX còn rất thấp, năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ HTX còn yếu, không ổn định (100/281 chủ nhiệm HTX chưa qua đào tạo; chỉ có 29/281 chủ nhiệm có trình độ từ cao đẳng trở lên (chiếm 10,3%)).

Vai trò, vị trí của HTX nông nghiệp kiểu mới chưa được thể hiện nhiều trong thực tế. Hiệu quả kinh tế và sức hấp dẫn của HTX nông nghiệp kiểu mới chưa nhiều, kinh tế các HTX nông nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.

4. Doanh nghiệp tham gia sản xuất kinh doanh ngành nông, lâm, thuỷ sản đang đứng trước nhiều thách thức của nền kinh tế thị trường

Phát triển kinh tế nhiều thành phần đã và đang được khuyến khích trong các ngành kinh tế quốc dân. Trước thời kỳ đổi mới, chỉ có các doanh nghiệp nhà nước tham gia sản xuất thì trong những năm đổi mới đã có những doanh nghiệp ngoài nhà nước tham gia và số lượng ngày càng nhiều lên. Số liệu qua 3 kỳ Tổng điều tra cũng đã khẳng định điều này.

Năm 1994, Hà nội có 25 doanh nghiệp tham gia hoạt động sản xuất nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, đến năm 2001, có 30 doanh nghiệp trong đó, có 5 công ty ngoài nhà nước và đến năm 2006, tổng số doanh nghiệp là 39, trong đó doanh nghiệp nhà nước chỉ còn 13 đơn vị. Doanh nghiệp Nhà nước, một mặt do hoạt động kém hiệu quả, mặt khác do yêu cầu quản lý, đã sát nhập hoặc chuyển thành công ty cổ phần. Doanh nghiệp ngoài nhà nước đã tăng lên nhanh chóng, tại thời điểm 1/7/2006, có 26 đơn vị, trong đó 12 doanh nghiệp là công ty cổ phần (có 4 doanh nghiệp cổ phần có vốn nhà nước), 12 doanh nghiệp là công ty TNHH và 2 công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này phần lớn làm dịch vụ như: sản xuất cung ứng cây, con giống, làm đất và dịch vụ tưới tiêu, bảo vệ thực vật. Tuy nhiên, để giảm thiểu rủi ro, hầu hết các doanh nghiệp hiện nay đều kinh doanh đa ngành để nhằm trang trải và hỗ trợ cho ngành sản xuất kinh doanh chính. Không có doanh nghiệp nào hoạt động thuần tuý về chăn nuôi hay trồng trọt. Đây cũng là khó khăn mang tính đặc thù trong sản xuất tập trung của ngành nông nghiệp Hà Nội.

Tổng số lao động của các doanh nghiệp tại thời điểm điều tra là 3443 người, trong đó lao động hợp đồng dài hạn là 80,5%. Do tính chất thời vụ của ngành nên các doanh nghiệp phải tuyển lao động hợp đồng ngắn hạn.

Tổng diện tích đất nông nghiệp, lâm nghiệp và mặt nước của các doanh nghiệp sử dụng là 3338 ha, trong đó đất nông nghiệp là 520 ha chiếm 15,6%. Có 19 doanh nghiệp sử dụng đất nông nghiệp, bình quân một doanh nghiệp sử dụng 27, 3 ha đất. Đất lâm nghiệp 2070 ha, có 4 doanh nghiệp sử dụng đất lâm nghiệp, riêng lâm trường Sóc Sơn sử dụng 2039, 5 ha. Mặt nước nuôi trồng thuỷ sản 748,2 ha, có 10 đơn vị sử dụng mặt nước nuôi trồng thuỷ sản, riêng công ty cổ phần đầu tư và khai thác Hồ Tây sử dụng phần lớn diện tích này (526 ha).

Máy móc thiết bị chủ yếu của các doanh nghiệp tại thời điểm điều tra chủ yếu là ô tô con (tổng số ô tô của các doanh nghiệp là 60 chiếc trong đó vận tải hành khách và hàng hoá là 15 chiếc), máy bơm nước dùng cho sản xuất nông lâm thuỷ sản (482 cái).

Việc ứng dụng công nghệ thông tin của các doanh nghiệp nông, lâm, thuỷ sản còn chậm so với tình hình chung của các doanh nghiệp trong các ngành kinh tế quốc dân. Số doanh nghiệp có máy vi tính phục vụ sản xuất kinh doanh là 35, chiếm 89,7%. Tổng số máy tính là 238 chiếc, bình quân mỗi doanh nghiệp có 6 máy. Số doanh nghiệp có kết nỗi mạng internet là 23 đơn vị (58,9%) với 29% số máy tính kết nối mạng.

Tổng tài sản của các doanh nghiệp tính đến 31/12/2005 là 874, 1 tỉ đồng, trong đó tài sản cố định và đầu tư dài hạn là 464, 2 tỉ đồng, tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn là 409, 8 tỉ đồng. Trong cơ cấu tài sản: nguồn vốn chủ sở hữu chiếm 65,3%, nợ phải trả 34,7%, điều này cho thấy các doanh nghiệp có tình hình tài chính chưa hoàn toàn tự chủ. Tỷ lệ sử dụng đòn bẩy tài chính còn thấp, năm 2005 tổng doanh thu của các doanh nghiệp là 446, 4 tỉ đồng, bình quân một doanh nghiệp là 11, 45 tỉ đồng. Tổng số doanh nghiệp làm ăn có lãi là 21 doanh nghiệp chiếm 53,8%; tổng số tiền lãi là 16024 triệu đồng, bình quân một doanh nghiệp lãi 763 triệu đồng. Tổng số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ là 12, chiếm 30,8%; tổng số tiền lỗ là 19622 triệu đồng, bình quân một doanh nghiệp lỗ 1635 triệu đồng. Lỗ nhiều nhất là các doanh nghiệp làm dịch vụ thủy nông.

Tổng số tiền nộp ngân sách của các doanh nghiệp là 9569 triệu đồng, bình quân một doanh nghiệp nộp 245, 4 triệu đồng. Thu nhập bình quân một lao động là 1, 1 triệu đồng/tháng. Như vậy, thu nhập của người lao động làm việc trong các doanh nghiệp nông lâm thuỷ sản so với các ngành khác ở mức thấp.

Qua số liệu Tổng điều tra cho thấy, số doanh nghiệp dân doanh tham gia sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp có tăng qua các thời kỳ, nhưng vẫn còn rất ít so với tổng số doanh nghiệp dân doanh trong tất cả các ngành kinh tế của Thủ đô, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong lĩnh vực này hoạt động chưa hiệu quả, số lượng các doanh nghiệp này rất thấp (39/21753 DN) trong tổng số doanh nghiệp đang hoạt động của toàn Thành phố và chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ, công ích không vì lợi nhuận. Mặt khác, quy mô của các doanh nghiệp còn nhỏ, giá trị kinh tế tạo ra và nộp vào ngân sách Nhà nước hàng năm không đáng kể.

5. Sản xuất một số nông sản, thuỷ sản chủ yếu đã có hiệu quả kinh tế, nhưng tính ổn định chưa cao

Trong sản xuất nông nghiệp Thủ đô hiện nay tuy đã có sự chuyển dịch cơ cấu trong nội bộ ngành, song trồng lúa vẫn là cây chủ lực trong trồng trọt (chiếm 36% tổng giá trị sản xuất ngành ttrồng trọt) và chăn nuôi lợn vẫn là chủ lực trong chăn nuôi (chiếm 64% trong cơ cấu giá trị sản xuất ngành chăn nuôi). Cả hai nông sản này có vai trò và vị trí hết sức quan trọng trong phát triển kinh tế cũng như góp phần vào việc giữ vững an ninh lương thực và thực phẩm trên địa bàn nông thôn ngoại thành. Trong những năm gần đây, tuy diện tích trồng lúa có giảm do một phần đất nông nghiệp chuyển sang phát triển công nghiệp và xây dựng các công trình công cộng, song bù lại năng suất lúa liên tục tăng (năm 2001 năng suất bình quân là 37, 05 tạ/ha; năm 2003 là 40, 04 tạ/ha; năm 2006 là 41, 78 tạ/ha).

Tổng đàn lợn toàn Thành phố tại thời điểm 1/7/2006 có 353793 con và sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng có mức tăng bình quân hàng năm là 4,85% và 24,27% thời kỳ 2001-2006. Trồng lúa và nuôi lợn đã và đang đem lại hiệu quả trên cả ba phương diện kinh tế, xã hội và môi trường ở các huyện. Tuy nhiên, kiểu sản xuất hai loại nông sản này phổ biến vẫn theo kiểu truyền thống, nên hiệu quả kinh tế mang lại còn chưa cao, vẫn là lấy công làm lãi. Theo kết quả điều tra mở rộng hiệu quả sản xuất lúa ở các huyện cho thấy chi phí sản xuất (giá thành) cho 1 kg lúa vụ đông xuân 2005-2006 (bao gồm cả chi phí tự làm) khá cao so với toàn quốc, là: 2258 đồng /kg.

Hà Nội là Thủ đô đất chật người đông, diện tích lúa bình quân mỗi hộ rất thấp (xấp xỉ 4 sào /hộ), lại manh mún, rất khó canh tác, khó cơ giới hoá, nên người nông dân tự làm là chủ yếu, các công việc thuê dịch vụ bên ngoài không nhiều và giá công thuê cao. Mức đầu tư lao động các khâu làm đất, chăm sóc, tưới tiêu, phòng trừ sâu bệnh... tương đối nhiều và bằng lao động thủ công là chính, nên chi phí sản xuất cao. Tỷ lệ chi phí hộ tự làm rất lớn chiếm 52,2% trong tổng chi phí sản xuất. Chi phí phân bón và giống chiếm 28,6%; chi phí thuốc bảo vệ thực vật chiếm 10,5%. Năm 2006, người trồng lúa sau khi trừ mọi khoản chi phí mỗi sào có lãi khoảng 70000 đồng /sào. Do diện tích lúa ít, nên với mức lãi như trên tính cho cả hai vụ mỗi hộ nông dân năm 2006 chỉ có lãi từ trồng lúa bình quân khoảng 560000 đồng. Với mức thu nhập như vậy người trồng lúa gặp rất nhiều khó khăn trong cuộc sống, nhiều hộ gia đình đã bỏ hoang hoặc cho thuê để chuyển sang làm thuê các công việc phi nông, lâm, thuỷ sản có thu nhập cao hơn.

Chăn nuôi lợn thịt hiện nay chủ yếu quy mô nhỏ từ 2-3 con/hộ, thức ăn thô, tận dụng từ nguồn thức ăn sẵn có của địa phương là chủ yếu. Xu hướng sử dụng thức ăn bán công nghiệp và công nghiệp đang hình thành nhưng chưa phổ biến, mới tập trung ở những hộ chăn nuôi có quy mô lớn và những hộ sản xuất trang trại. Vì vậy, lợn chậm lớn, chu kỳ nuôi một lứa kéo dài, năng suất chưa cao dẫn đến hiệu quả thấp, thu nhập của người chăn nuôi lợn thịt hầu như không đáng kể. Những năm gần đây, ở các vùng ven đô, các địa phương có sản xuất công nghiệp, có các trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và dạy nghề, những nơi dịch vụ phát triển thì rất nhiều hộ trước đây chăn nuôi 1-2 con lợn đến nay không chăn nuôi nữa mà chuyển sang xây nhà cho sinh viên và công nhân thuê (Từ Liêm, Thanh Trì, khu Bắc Thăng Long, thị trấn Trâu Quỳ). Theo kết quả điều tra chi phí cho 1 kg thịt lợn hơi xuất chuồng bình quân là 14100 đồng /kg, cao hơn 715 đồng /kg so với vùng Đồng bằng sông Hồng (là những tỉnh có diện tích đất đai rộng hơn, nguồn nguyên liệu rẻ, sẵn có và giá nhân công thấp hơn) nhưng thấp hơn từ 235 đồng /kg đến 1081 đồng /kg so với vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (là những nơi sử dụng nhiều thức ăn công nghiệp cho chăn nuôi).

Cơ cấu chi phí để sản xuất 1 kg thịt lợn hơi xuất chuồng: Chi phí thức ăn chiếm 58,3%; con giống chiếm 25,9%; lao động, thuốc thú y, nhiên liệu, thuê ngoài khoảng 15,8%. Để giảm giá thành chăn nuôi và tăng lợi nhuận, thì giảm chi phí thức ăn là điều cần thiết nhưng thực tế giá thức ăn đặc biệt là thức ăn công nghiệp đang ở mức quá cao so với thế giới, nên việc giảm chi phí này rất khó thực hiện. Mặt khác, giá bán thịt lợn tăng chậm, thu nhập của người chăn nuôi chỉ ở mức hoà vốn hoặc có lãi chút ít. Vì vậy, chăn nuôi lợn khó có điều kiện phát triển và cạnh tranh so với các ngành sản xuất khác trong nước, cũng như cạnh tranh trên thị trường thịt lợn Thế giới.

Ngoài nghề trồng lúa và chăn nuôi lợn chiếm ưu thế trong sản xuất nông nghiệp Thủ đô thì nghề trồng hoa và trồng rau cũng đang giữ vai trò quan trọng trong cơ cấu giá trị sản xuất nông nghiệp. Hai nghề này đang được chú trọng, ưu tiên phát triển, tạo bước thay đổi trong cơ cấu sản xuất nông nghiệp bởi hiệu quả sản xuất mà nó mang lại cao hơn trồng lúa và nuôi lợn. Theo kết quả điều tra 150 hộ trồng hoa và 200 hộ trồng rau, cho thấy giá trị sản xuất 1 ha hoa bình quân là 289 triệu đồng /ha và lợi nhuận bình quân đạt 32, 5 triệu đồng/sào cao gấp 16 lần trồng lúa. Tuy nhiên, thu nhập từ nghề trồng hoa không đồng đều giữa các huyện và còn phụ thuộc nhiều vào kinh nghiệm truyền thống của từng vùng và đối với từng loại hoa. Các vùng Tây Tựu (Từ Liêm), Nhật Tân, Tứ Liên (Tây Hồ) có lợi nhuận bình quân cao hơn nhiều so với những vùng trồng hoa ở các huyện ngoại thành khác. Ngược lại, ở các xã Vân Nội (Đông Anh), Văn Đức, Đông Dư (Gia Lâm) lại có ưu thế trồng rau. Lợi nhuận trồng rau ở những vùng này cũng khá cao, đạt mức 20-25 triệu đồng /ha.

Hiện nay, hai nghề này cũng đang đứng trước những thách thức về thị trường tiêu thụ sản phẩm. Một mặt, do trồng hoa của Hà Nội chưa vươn tới được các thị trường nước ngoài do phẩm cấp chất lượng hoa và khâu tiếp thị còn hạn chế. Mặt khác, tiêu thụ trong nước hầu như đã bão hoà do diện tích tăng nhanh, nên giá các loại hoa hầu như không tăng qua các năm. Nghề trồng hoa thu nhập năm sau không cao hơn năm trước vì giá đầu vào tăng nhanh nhưng giá đầu ra tăng chậm. Đối với nghề trồng rau, do chất lượng rau nhiều vùng không đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm nên tiêu thụ gặp nhiều khó khăn và giá cả không ổn định.

Thời gian tới, quá trình đô thị hoá ở Hà Nội vẫn tiếp tục diễn ra với tốc độ cao. Sự phát triển của Hà Nội phải gắn với phát triển kinh tế vùng, để vừa hội tụ được những tinh hoa, vừa lan toả sự ảnh hưởng cho vùng và cả nước. Trước yêu cầu phát triển của Thủ đô, Thành uỷ Hà Nội đã xây dựng chương trình “Phát triển kinh tế ngoại thành và từng bước hiện đại hoá nông thôn giai đoạn 2006-2010” chương trình đã đặt ra mục tiêu phát triển kinh tế, xã hội của các huyện ngoại thành với các chỉ tiêu kinh tế sau:

1.1. Tốc độ tăng giá trị sản xuất của các ngành: 15%

- Công nghiệp - TTCN - XDCB: 20%

- Thương mại - Dịch vụ: 13%

- Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản: 2%

1.2. Cơ cấu kinh tế nông thôn

- Công nghiệp - TTCN - XDCB: 65%

- Thương mại - Dịch vụ: 25%

- Nông nghiệp - Lâm nghiệp - Thủy sản: 10%

+ Trồng trọt: 45%

+ Chăn nuôi - Thủy sản: 50%

+ Dịch vụ nông nghiệp: 5%

1.3. Giá trị sản xuất nông nghiệp trên 1 hecta đất canh tác: từ 70 triệu đồng trở lên.

1.4. Cơ cấu lao động trong các ngành kinh tế

- Nông nghiệp: 41,57%

- Công nghiệp - TTCN - XDCB: 29,52%

- Thương mại - Dịch vụ: 28,91%

Thu nhập bình quân: 700USD/người /năm.

Chương trình sẽ tác động mạnh đến việc phát triển nông nghiệp và nông thôn. Để đạt được các chỉ tiêu trên,nông nghiệp Hà Nội cần tập trung vào việc xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư trang thiết bị hiện đại, ứng dụng các giải pháp công nghệ cao, công nghệ sạch để chọn lọc, lai tạo, nhân nhanh các loại giống cây trồng, vật nuôi có hàm lượng chất xám cao; giải quyết đủ giống tốt cho nhu cầu thực hiện việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở ngoại thành để từng bước xây dựng, mở rộng các khu vực nông nghiệp sạch, bền vững; trên cơ sở đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất nông nghiệp theo hướng giảm diện tích cây lương thực, phát triển nhanh diện tích trồng rau an toàn, hoa, cây cảnh và nuôi trồng thuỷ sản; phấn đấu trong giai đoạn 2006-2010 giá trị sản xuất bình quân trên một hecta đất canh tác đạt từ 70 đến 80 triệu đồng, tăng trưởng kinh tế ở vùng nông thôn đạt trung bình 15%/năm.

Trên đây là những nhận xét, đánh giá khái quát từ những số liệu chủ yếu rút ra từ kết quả tổng hợp của cuộc Tổng điều tra Nông thôn, nông nghiệp và thuỷ sản năm 2006, nhằm đáp ứng những yêu cầu cơ bản của lãnh đạo các cấp, các ngành trong chỉ đạo chiến lược phát triển kinh tế xã hội Thủ đô giai đoạn 2006-2010-2020. Những kết quả đó đã phản ánh những nét chính về thực trạng và những vấn đề đặt ra trong nông thôn, nông nghiệp hiện nay của Thủ đô. Đồng thời, nó cũng phản ánh những kết quả to lớn về chuyển dịch cơ cấu hộ nông thôn, về phát triển và nâng cấp kết cấu hạ tầng nông thôn, về phát triển các loại hình sản xuất nông lâm thuỷ sản (hộ trang trại, hợp tác xã, doanh nghiệp). Những kết quả đạt đư­ợc trong việc giảm chi phí, hạ giá thành một số nông sản cũng như­ những tồn tại trong chuyển dịch cơ cấu hộ trong phát triển kinh tế hợp tác xã, trang trại và doanh nghiệp.Cục Thống kê thành phố Hà Nội kính mong các cấp các ngành hữu quan phối hợp để khai thác, sử dụng hiệu quả nguồn thông tin này nhằm phục vụ tốt hơn các nghiên cứu chuyên sâu của công việc mình.



Các bài mới đăng

Các bài đã đăng :

Bài viết Xem




Viết bình luận

Họ tên:(*)
Số điện thoại:
Tiêu đề:(*)
Nội dung:(*)
Mã xác nhận:         Lấy lại mã bảo mật